Văn phòng Phụ trách Dân quyền (OCR) thuộc Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Hoa Kỳ cùng với các Trung tâm Dịch vụ (CMS) Medicaid (Bảo Hiểm Y tế cho Người Thu nhập thấp) và Medicare (Bảo hiểm Y tế cho Người Mất sức Lao động) chia sẻ quyền lực pháp lý về các quy định chống kỳ thị liên quan đến việc thăm viếng bệnh nhân tại các bệnh viện, các bệnh viện trọng yếu ở nông thôn, và các cơ sở chăm sóc y tế dài hạn tham gia Medicare và Medicaid.i (Nói cho đơn giản, “việc thăm viếng bệnh nhân” được đề cập trong tài liệu này bao gồm việc thăm viếng bệnh nhân nội trú tại các cơ sở chăm sóc y tế dài hạn tham gia Medicare và Medicaid). Những quy định này ngăn cấm sự kỳ thị trong các chính sách thăm viếng bệnh nhân dựa trên chủng tộc, màu da, nguồn gốc dân tộc, tôn giáo, giới tính, giới tính định danh, xu hướng tình dục, hay khuyết tật.ii OCR thi hành ngăn cấm kỳ thị tôn giáo trong các quy định này, và CMS thi hành các quy định này vì các quy định này liên quan đến các nền tảng khác của sự kỳ thị.iii
OCR đã nhận được nhiều khiếu nại và câu hỏi trong đại dịch COVID-19 về quyền của một người được thăm viếng mà không bị sự kỳ thị dựa trên tôn giáo. OCR cung cấp bảng Câu hỏi và Câu trả lời Thường Gặp này cho công chúng để bệnh nhân nội và ngoại trú, gia đình, và người chăm sóc ý thức được về quyền của họ liên quan đến việc thăm viếng bệnh nhân, cũng như quyền của họ dựa theo các đạo luật nhân quyền khác thuộc liên bang có thể áp dụng vào việc thăm viếng do OCR thi hành. Bảng Câu hỏi và Câu trả lời Thường Gặp này nhằm đảm bảo rằng các cơ sở được bao hàm trong các quy định của CMS và các cơ quan chăm sóc y tế được bao hàm trong thẩm quyền của OCR ý thức được bổn phận của họ để có thể phục vụ người dân tốt hơn, bao gồm bất cứ trường hợp khẩn cấp về sức khỏe cộng đồng nào trong tương lai.
1. Theo các quy định của CMS thì việc thăm viếng bệnh nhân được thiết lập từ những điều gì?
Bệnh nhân nội hoặc ngoại trú có quyền được thăm viếng bởi người mà họ chỉ định. Những người khách này có thể bao gồm người phối ngẫu hay người chung sống (bao gồm cả người cùng giới tính), một thành viên khác trong gia đình, hoặc một người bạn, nhưng cũng không bị giới hạn trong những người này. Những ví dụ bổ sung có thể bao gồm một thành viên giáo sĩ, cha tuyên úy, mục sư, hoặc một lãnh đạo tín ngưỡng. Cơ sở y tế nào chịu sự quản lý của các quy định của CMS về việc thăm viếng bệnh nhân phải đảm bảo rằng các chính sách của họ không kỳ thị dựa trên chủng tộc, màu da, nguồn gốc dân tộc, tôn giáo, giới tính, giới tính định danh, xu hướng tình dục, hay khuyết tật. Bệnh nhân nội hoặc ngoại trú cũng có quyền rút lại hoặc từ chối sự thăm viếng của bất kỳ người nào trong số đó, vào bất kỳ lúc nào. Những quyền này được bảo vệ theo các quy định tại Tiêu đề 42 C.F.R. Mục 482.13(h) (dành cho bệnh viện), 483.10(f)(4) (dành cho cơ sở chăm sóc y tế dài hạn), và 485.614(h) (dành cho bệnh viện trọng yếu vùng nông thôn).
Thêm vào đó, trong những tình huống cụ thể, các cá nhân khuyết tật có quyền được một người hỗ trợ đi cùng. Điều này đã được nói rõ trong các luật dân quyền do OCR thi hành, bao gồm Mục 1557 của Đạo Luật Chăm Sóc Sức Khỏe Giá Phải Chăng (42 U.S.C. 18116 và quy định về thi hành tại 45 CFR part 92) và Mục 504 của Đạo luật Phục Hồi (sau đây sẽ được gọi là “Mục 504”) (29 U.S.C. § 794 và quy định về thi hành tại Tiêu đề 45 C.F.R. 84). Quyền có người hỗ trợ theo các luật nhân quyền của liên bang khác với quyền được thăm viếng và các yêu cầu về ngăn chặn truyền nhiễm theo các quy định của CMS. Dù khác biệt như vậy, trong thời gian khẩn cấp về sức khỏe cộng đồng do COVID-19, một số cơ sở đã không phân biệt giữa sự thăm viếng với quyền được có người hỗ trợ của người khuyết tật như là một sự điều chỉnh hợp lý để người đó được hiện diện. Để biết thêm thông tin, hãy xem hướng dẫn của OCR về quyền có người hỗ trợ đi cùng.iv
2. Vì sao việc thăm viếng bệnh nhân là quan trọng?
Người được các cơ quan y tế chăm sóc thường bị mất đi giá trịv của sự hỗ trợ về thể chất, tinh thần và tâm linh mà họ nhận được từ gia đình, người chăm sóc, bạn , giáo sĩ, và những người khác. Bị tách rời khỏi gia đình và người thân có thể gây thiệt hại đến thể chất và tinh thần của người bệnh và người thân của họ, đặc biệt là trong trường hợp chăm sóc y tế dài hạn hoặc những tình huống cuối cuộc đời. Việc này có thể dẫn đến cảm giác bị cô lập khỏi xã hộivi, dẫn đến tăng nguy cơ trầm cảm, lo âu và các biểu hiện của sự buồn bã, bao gồm những người bị suy giảm nhận thức hoặc các khuyết tật khác.vii Quyền được thăm viếng của bệnh nhân phản ánh thực tế và giúp đảm bảo rằng con người có thể hưởng lợi từ việc giao tiếp với những người mà họ có một mối quan hệ đặc biệt theo một phương thức hợp lý và an toàn.
3. Những cơ sở y tế nào có nghĩa vụ với việc thăm viếng bệnh nhân nội và ngoại trú?
Các cơ sở y tế nào tham gia Medicare và Medicaid và được Medicare và Medicaid chứng nhận, bao gồm bệnh viện (như được nêu trong Tiêu đề 42 C.F.R. Mục 482.13(h)), các cơ sở chăm sóc dài hạn (như được nêu trong Tiêu đề 42 C.F.R. Mục 483.10(f)(4)), và các bệnh viện trọng yếu vùng nông thôn (như được nêu trong Tiêu đề 42 C.F.R. Mục 485.614(h)) sẽ có các nghĩa vụ không kỳ thị trong việc thăm viếng bệnh nhân mà OCR có thẩm quyền.
4. Các cơ quan nào có nghĩa vụ nhân quyền nào khác có thể đòi hỏi họ phải chấp nhận các cá nhân thăm viếng 1 bệnh nhân?
Tất cả các cơ quan y tế nhận hỗ trợ tài chính của liên bang từ Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh, bao gồm cả những cơ quan không phải là cơ sở chăm sóc y tế dài hạn, bệnh viện hay các bệnh viện trọng yếu vùng nông thôn cũng có trách nhiệm riêng biệt phải tuân thủ các luật nhân quyền của liên bang ngăn cấm người nhận hỗ trợ tài chính của liên bang loại trừ một cá nhân khác tham gia, hoặc từ chối quyền lợi của một cá nhân, hoặc kỳ thị một cá nhân trong các chương trình và hoạt động của người đó. Những nghĩa vụ này, do OCR thi hành, xuất phát từ Mục 504 của Đạo Luật Phục Hồi, trong đó, cấm kỳ thị dựa trên khuyết tật, và Mục 1557 của Đạo Luật Chăm Sóc Sức Khỏe Giá Phải Chăng, trong đó ngăn cấm sự kỳ thị dựa trên chủng tộc, màu da, nguồn gốc dân tộc, giới tính (bao gồm giới tính định danh và xu hướng tình dục), tuổi tác và khuyết tật.viii Trong những trường hợp sự hiện diện của một người hỗ trợ là cần thiết để cung cấp cho một cá nhân khuyết tật một cơ hội công bằng để tham gia hoặc hưởng lợi từ các sự trợ giúp, các lợi ích hoặc dịch vụ do một cơ sở y tế cung cấp, các chính sách và việc thực hiện sự thăm viếng nào ngăn cản người hỗ trợ tham giam có thể vi phạm luật về nhân quyền của liên bang, ví dụ như Mục 1557, Tiêu đề VI, Tiêu đề IX, Đạo luật Chống Phân biệt Đối xử dựa trên Tuổi tác, và Mục 504. Thêm vào đó, khi cần thiết để giao tiếp hiệu quả, cơ quan có trách nhiệm cung cấp những sự hỗ trợ và các dịch vụ phù hợp cho người khuyết tật. Việc này có thể bao gồm thông dịch và người đọc tận nơi. Một chính sách chỉ cung cấp thông dịch từ xa qua hình ảnh hoặc các hình thức trợ giúp hoặc dịch vụ từ xa khác có thể vi phạm yêu cầu cung cấp sự giao tiếp hiệu quả của Mục 504 và Mục 1557 nếu một thông dịch viên hoặc người đọc tận nơi là cần thiết cho việc giao tiếp hiệu quả.
Liệu một cơ quan y tế được bao hàm buộc phải cho phép hay không cho phép một người hỗ trợ thực sự hiện diện như là một sự điều chỉnh hợp lý tùy thuộc vào một số yếu tố, bao gồm các vấn đề an toànix và liệu việc tham gia từ xa có hiệu quả hay không. Để biết thêm chi tiết, xin hãy xem hướng dẫn của OCR được phát hành trong suốt đại dịch COVID- 19 dành cho các nhà cung cấp dịch vụ y tế liên quan đến việc tiếp cận dành cho người tàn tật.x Thêm vào đó, các cơ quan được bao hàm có thể bị yêu cầu cung cấp thông dịch và/hoặc tài liệu đã được phiên dịch cho những người có trình độ tiếng Anh giới hạn (LEP). Hãy xem hướng dẫn về quyền của người có trình độ tiếng Anh giới hạn được có thông dịchxi và hướng dẫn chung cho cá nhân có trình độ tiếng Anh giới hạnxii để biết thêm thông tin về thông dịch, cả thông dịch tận nơi và từ xa.
5. Có cần thiết tôi phải có Medicare hoặc Medicaid mới có quyền được thăm viếng dành cho bệnh nhân theo các quy định của CMS hay không?
Không. Quy định của CMS theo Tiêu đề 42 C.F.R. các Mục 482.13(h), 483.10(f)(4), và 485.614(h) cung cấp cho bệnh nhân nội và ngoại trú quyền được thăm viếng tại các bệnh viện, cơ sở chăm sóc y tế dài hạn, or hoặc các bệnh viện trọng điểm vùng nông thôn tham gia vào chương trình Medicare hoặc Medicaid , bất kể là cá nhân bệnh nhân nội hoặc ngoại trú có Medicare hoặc Medicaid hay không. Tương tự, các luật của liên bang về nhân quyền bảo vệ các cá nhân không bị kỳ thị trong các chương trình và các hoạt động y tế của các cơ quan được chi trả (bởi CMS), bất kể cá nhân đó có Medicare hay Medicaid hay không.
6. Các cơ sở y tế có cần phải thông báo với bệnh nhân nội hoặc ngoại trú về quyền được thăm viếng của họ không?
Có. Theo Tiêu đề 42 C.F.R. Mục 482.13(h), 483.10(f)(4), và 485.614(h), tất cả các cơ sở phải có chính sách và quy trình bằng văn bản về quyền bệnh nhân được thăm viếng. Chính sách và quy trình bằng văn bản này phải bao gồm:
- Bất kỳ sự cần thiết thuộc về y tế hoặc sự giới hạn hoặc sự hạn chế hợp lý nào mà cơ sở y tế có thể cần đặt ra cho việc thăm viếng bệnh nhân, và
- Các lý do về y tế cho sự giới hạn hoặc hạn chế đó.
Theo các quy định của CMS, bệnh viện và các bệnh viện trọng điểm vùng nông thôn có trách nhiệm thông báo cho mỗi bệnh nhân các quyền được thăm viếng của họ, bao gồm bất cứ giới hạn hoặc hạn chế y tế đối với các quyền thăm viếng đó trước khi cung cấp hoặc kết thúc sự chăm sóc bất cứ khi nào có thể. Khi bệnh nhân nội trú được thông báo về các quyền khác của họ theo Tiêu đề 42 C.F.R. Mục 483.10, các cơ sở chăm sóc y tế dài hạn có trách nhiệm thông báo cho mỗi bệnh nhân về quyền được thăm viếng của họ, bao gồm bất cứ giới hạn và hạn chế nào vì lý do y tế hoặc an toàn đối với các quyền đó. Khi các chính sách về thăm viếng thay đổi để thích nghi với các mối nguy cho sức khỏe vào thời điểm hiện hành, các cơ sở ý tế nên cung cấp cho bệnh nhân các chính sách về thăm viếng được cập nhật mới nhất, ví dụ như bằng cách cập nhật các chính sách được cung cấp bằng văn bản, dùng lời nói, hoặc ghi trên website của cơ sở y tế.
Theo Tiêu đề 42 C.F.R. Mục 482.13(h)(3) (dành cho bệnh viện), 483.10(f)(4)(vi)(C) (dành cho cơ sở chăm sóc y tế dài hạn), và 485.614(h)(3) (dành cho bệnh viện trọng điểm vùng nông thôn), và theo luật liên bang về nhân quyền do OCR thi hành, các cơ sở y tế được bao hàm trong các quy định của CMS và các cơ quan nằm trong các luật về nhân quyền do OCR thi hành cũng phải đảm bảo rằng tất cả bệnh nhân, bất kể chủng tộc, màu da, nguồn gốc dân tộc, tôn giáo, giới tính, giới tính định danh, xu hướng tình dục, tuổi tác, hay khuyết tật, đều được hưởng quyền được thăm viếng theo một phương cách không bị kỳ thị. Điều này có thể bao gồm, ví dụ như cung cấp cho bệnh nhân có trình độ tiếng Anh hạn chế bản thông báo bằng một ngôn ngữ khác với tiếng Anh về quyền được thăm viếng.
7. Các cơ sở y tế có được phép giới hạn việc thăm viếng bệnh nhân không?
Có. Theo Tiêu đề 42 C.F.R. Mục 482.13(h), 483.10(f)(4), và 485.614(h), các bệnh viện, bệnh viện trọng điểm vùng nông thôn, và các cơ sở chăm sóc y tế dài hạn có thể có sự giới hạn riêng của mỗi nơi việc ra vào cơ sở của họ miễn là những sự giới hạn đó là cần thiết về y tế hoặc phải hợp lý (ví dụ như giới hạn thời gian và số lượng khách trong mỗi lượt thăm viếng); trước khi bắt đầu hoặc kết thúc việc chăm sóc bệnh nhân, bất cứ khi nào có thể, họ thông báo cho bệnh nhân ngoại trú về chính sách và trình tự của cơ sở (nếu là bệnh viện hoặc bệnh viện trọng điểm vùng nông thôn) hoặc thông báo cho bệnh nhân nội trú cùng lúc với việc thông báo các quyền khác của họ (nếu là cơ sở chăm sóc y tế dài hạn). Họ duy trì chính sách của họ bằng văn bản; và họ không giới hạn, hạn chế hay từ chối quyền thăm viếng dựa trên chủng tộc, màu da, nguồn gốc dân tộc, tôn giáo, giới tính, giới tính định danh, xu hướng tình dục, hay khuyết tật.
Thêm vào đó, theo luật liên bang về nhân quyền, bao gồm Mục 1557, sự giới hạn đối với việc thăm viếng do nhu cầu y tế có thể được cho phép đối với các lý do an toàn dựa trên các rủi ro khách quan. Mục 504 và Mục 1557 cho phép các cơ sở được bao hàm có những yêu cầu chính đáng cần thiết cho việc vận hành một cách an toàn các chương trình và hoạt động của họ. Tuy nhiên, các cơ sở được bao hàm phải đảm bảo rằng các yêu cầu về an toàn của họ dựa trên rủi ro thực tế, không dựa trên suy đoán đơn thuần, suy nghĩ rập khuôn hoặc đánh đồng về người khuyết tật.xiii
Sau đây là một ví dụ về một yêu cầu chính đáng vì lý do an toàn được cho phép: Trong suốt đại dịch COVID-19, một số cơ sở y tế giới hạn số lượng khách thăm viếng bệnh nhân đi vào trong tòa nhà hoặc trong phòng tại cùng một thời điểm. Một số cơ sở y tế cũng hạn chế việc thăm viếng bằng cách tầm soát COVID-19 trên những khách viếng thăm bệnh nhân, giới hạn không cho những người xét nghiệm dương tính vào, và theo một phương cách tuân thủ những yêu cầu nói trên. Theo Mục 504 và Mục 1557, cơ sở nhận bệnh nhân cũng phải có những sửa đổi hợp lý đối với các chính sách và quy trình đó khi cần thiết để tránh sự kỳ thị dựa trên khuyết tật, trừ khi họ thể hiện được rằng việc sửa đổi đó sẽ thay đổi căn bản bản chất của chương trình hoặc hoạt động chăm sóc sức khỏe hoặc tạo ra một gánh nặng thái quá về mặt tài chính hoặc hành chính.
8. Các cơ sở y tế có thể hạn chế việc thăm viếng bệnh nhân trong suốt những cuộc bùng phát bệnh truyền nhiễm hay không?
Có. Trong suốt những cuộc bùng phát bệnh truyền nhiễm như COVID- 19, Tiêu đề 42 C.F.R. Mục 482.13(h), 483.10(f)(4), và 485.614(h) cho phép các bệnh viện, cơ sở chăm sóc y tế dài hạn, và các bệnh viện trọng điểm vùng nông thôn hạn chế việc thăm viếng bệnh nhân nếu cơ sở y tế đó xác định rằng việc giới hạn là cần thiết về phương diện y tế hoặc hợp lý, và không giới hạn, hạn chế, hoặc từ chối quyền được thăm viếng dựa trên chủng tộc, màu da, nguồn gốc quốc gia, tôn giáo, giới tính, giới tính định danh, xu hướng tình dục, hay khuyết tật. Cũng như bất kỳ lý do nào khác để hạn chế sự thăm viếng, nếu một cơ sở y tế hạn chế sự thăm viếng do một tình huống khẩn cấp về sức khỏe cộng đồng hoặc bùng nổ dịch bệnh, cơ sở đó vẫn phải tuân thủ những yêu cầu theo quy định nào áp dụng được, bao gồm việc duy trì một chính sách hoặc quy trình thăm viếng bằng văn bản. Đối với các cơ sở chăm sóc y tế dài hạn, hướng dẫn của CMSxiv ghi chú rằng nếu một người đến thăm viếng, một bệnh nhân nội trú hoặc người đại diện của họ biết rằng có những rủi ro liên quan đến việc thăm viếng, và việc thăm viếng xãy ra theo cách thức không đặt những bệnh nhân nội trú khác vào rủi ro (ví dụ như thăm trong phòng của bệnh nhân đó), bệnh nhân nội trú đó phải được cho phép tiếp đón những người khách mà họ chọn.xv Các chuyến viếng thăm nhân ái, bao gồm những chuyến viếng thăm bệnh nhân nội trú có sức khỏe sa sút nhanh chóng hoặc chịu đựng một sự biến đổi đáng kể trong những hoàn cảnh khó khăn, được cho phép bất cứ lúc nào.xvi
Thêm vào đó, theo luật liên bang về nhân quyền mà HHS thực thi, bao gồm Mục 1557, sự giới hạn đối với việc thăm viếng do nhu cầu y tế có thể được cho phép đối với các lý do an toàn dựa trên các rủi ro khách quan. Mục 504 và Mục 1557 cho phép các cơ sở được bao hàm có những yêu cầu chính đáng cần thiết cho việc vận hành một cách an toàn các dịch vụ, các chương trình và các hoạt động của họ. Tuy nhiên, các cơ sở được bao hàm phải đảm bảo rằng các yêu cầu về an toàn của họ dựa trên rủi ro thực tế, không dựa trên suy đoán đơn thuần, suy nghĩ rập khuôn hoặc đánh đồng về người khuyết tật.
9. Các loại chính sách và quy trình nào có thể tạo ra một sự từ chối mang tính kỳ thị đối với quyền được thăm viếng?
Chính sách hoặc quy trình của một cơ quan hoặc cơ sở y tế có thể kỳ thị khi vi phạm luật liên bang về nhân quyền hoặc vi phạm các quy định của CMS nếu chính sách đó khiến cho những tầng lớp nào đó khách viếng thăm phải chịu sự tầm soát bổ sung hoặc chính sách đó ngăn chặn một tầng lớp khách viếng thăm nào đó mà không ngăn chặn những người khác, dựa trên chủng tộc, màu da, nguồn gốc dân tộc, tôn giáo, giới tính, giới tính định danh, xu hướng tình dục hoặc khuyết tật. Các ví dụ sau đây có thể cấu thành sự kỳ thị:
- Bệnh viện không cho gia đình mang đến cho bệnh nhân thực phẩm kosher hoặc thực phẩm halal đáp ứng sự ăn kiêng giới hạn theo tôn giáo của bệnh nhân trong khi cho phép những người khách khác mang cho các bệnh nhân khác những thực phẩm không liên quan tôn giáo.
- Thành viên của những nhóm tôn giáo nào đó chịu một tiến trình tầm soát nghiêm ngặt hơn và/hoặc là bị từ chối cơ hội được thăm viếng dựa trên tôn giáo của bệnh nhân hoặc của khách đến thăm.
- Các bệnh viện trong đại dịch có chính sách cho phép bệnh nhân được thăm viếng bởi gia đình và bạn bè, nhưng ngăn cấm họ đi cùng với giáo sĩ tới thăm bệnh nhân.
Trong suốt thời gian khẩn cấp về sức khỏe cộng đồng COVID-19, OCR nhận được lời khiếu nại rằng một số bệnh viện ngăn cấm sự thăm viếng mà không tính đến việc người khuyết tật cần sự hiện diện của người hỗ trợ để giao tiếp hiệu quả và đưa ra quyết định. Những chính sách không cho phép sự chỉnh sửa hợp lý đối với những người khuyết tật cần sự hiện diện của người hỗ trợ rất có thể vi phạm luật về quyền của người khuyết tật.xvii Đây là một số ví dụ chọn lọc về những loại chính sách và quy trình có thể tạo ra sự từ chối mang tính kỳ thị đối với quyền được thăm viếng, vi phạm luật và các quy định liên bang về nhân quyền.
10. Cơ sở của chúng tôi có chương trình cung cấp cha tuyên úy. Cơ sở có bị yêu cầu phải cho phép sự thăm viếng của các giáo sĩ không?
Có, nếu chính sách của cơ sở y tế cho phép thăm viếng với những đối tượng khách thăm viếng khác. Bệnh nhân nội và ngoại trú tại các bệnh viện, bệnh viện trọng điểm vùng nông thôn, và các cơ sở chăm sóc y tế dài hạn có quyền tiếp nhận những người khách mà họ chọn, bao gồm các giáo sĩ, mục sư, cha tuyên úy, hoặc lãnh đạo tín ngưỡng, và cơ sở y tế chỉ có thể hạn chế quyền đó vì nhu cầu y tế hoặc là sự giới hạn hợp lý. Những cơ sở nào phải tuân thủ quy định của CMS được đề cập trong Bảng Câu hỏi Thường Gặp này cũng nên đảm bảo rằng các cha tuyên úy, giáo sĩ, mục sư, các lãnh đạo tín ngưỡng, hoặc những người hỗ trợ tinh thần khác từ các tín ngưỡng cụ thể không phải chịu sự kỳ thị, ví dụ như, bị chịu những yêu cầu và giới hạn bổ sung. Các cơ sở y tế cũng nên ý thức thêm rằng các quy định của CMS bảo vệ quyền của bệnh nhân nội và ngoại trú được rút lại hoặc từ chối gặp một người khách viếng thăm vào bất cứ lúc nào, bao gồm cả giáo sĩ.
Các cơ sở y tế nào phải tuân thủ điều lệ của CMS được đề cập trong tài liệu này cũng không nên đánh đồng nhu cầu tôn giáo của những tôn giáo khác nhau của bệnh nhân, cho dù một cơ sở có tin rằng các bệnh nhân thuộc cùng chung hoặc liên quan đến cùng một tổ chức hoặc cộng đồng tôn giáo. Trong suốt đại dịch COVID-19, OCR đã nhận được khiếu nại rằng một vài bệnh viện cung cấp cha tuyên úy nhưng lại từ chối việc bệnh nhân gặp giáo sĩ Do Thái (rabbi), là những người có thể tổ chức lễ một cách thích hợp cho các bệnh nhân Do Thái Orthodox và Hasidic, bao gồm cả việc cung cấp dịch vụ tôn giáo bằng ngôn ngữ phù hợp. OCR cũng nhận được khiếu nại rằng nhân viên bệnh viện khẳng định rằng việc cho phép một mục sư thăm viếng bệnh nhân bằng cách đứng ngoài hành lang, phía bên ngoài cánh cửa là đã đủ vì như vậy cũng đã đủ cho các phong tục tôn giáo khác.
11. Một cơ sở y tế có thể duy trì một chính sách và quy trình thăm viếng bệnh nhân riêng dành cho người bệnh và khách viếng thăm đến từ những cộng đồng có mức độ bệnh truyền nhiễm bùng phát cao không?
Nói chung, một cơ quan hoặc cơ sở y tế được bao hàm không thể đặt nền tảng cho một chính sách hoặc quy trình thăm viếng bệnh nhân dựa trên giả thuyết và sự suy nghĩ rập khuôn rằng khả năng các cá nhân từ những cộng đồng tôn giáo hoặc cộng đồng thiểu số nào đó sẽ lây truyền một bệnh truyền nhiễm bởi vì chính sách hoặc quy trình này có thể kỳ thị chống lại bệnh nhân và khách thăm viếng theo một nền tảng đã được bảo vệ một cách hợp pháp. Tuy nhiên, ở nhiều tiểu bang, các cơ sở có thể thay đổi các chính sách thăm viếng của họ dựa trên thông tin khách quan về sự lây lan của COVID-19 trong quận mà mỗi cơ quan y tế đặt trụ sở trong khi tuân thủ các luật của liên bang và quy định của CMS về nhân quyền.
Theo Tiêu đề 42 C.F.R. Mục 482.13(h), 483.10(f)(4), và 485.614(h), bất kỳ sự giới hạn hoặc hạn chế nào đối với quyền được thăm viếng của bệnh nhân phải đặt nền tảng trên sự cần thiết y tế hoặc là một sự hạn chế hợp lý mà không giới hạn, hạn chế hoặc từ chối quyền thăm viếng dựa trên chủng tộc, màu da, nguồn gốc dân tộc, tôn giáo, giới tính, giới tính định danh, xu hướng tình dục, hay khuyết tật.
12. Có những khách thăm bệnh nào có thể được bảo đảm quyền đặc biệt được gặp bệnh nhân tại một cơ sở hoặc cơ quan y tế được bao hàm mà không nhất thiết phải áp dụng sự giới hạn hợp lý đối với việc thăm viếng hay không?
Có. Theo Tiêu đề 42 C.F.R. § 483.10(f)(4), các cơ sở chăm sóc y tế dài hạn phải cho phép quyền được thăm viếng tức thì cho các thành viên thân cận trong gia đình bệnh nhân, cá nhân bác sĩ, những người đại diện nào đó, (bao gồm những người đại diện từ Văn phòng Thanh tra Chăm sóc Y tế Dài hạn Ombudsman của Tiểu bang) và những cá nhân khác theo một phương cách không gây ảnh hưởng đến các quyền của bệnh nhân nội trú khác. Các cơ sở y tế cũng phải cho phép quyền một bệnh nhân nội trú được thăm viếng bởi bất kỳ cơ quan hoặc cá nhân nào cung cấp cho bệnh nhân đó các dịch vụ sức khỏe, xã hội, pháp lý hoặc các dịch vụ khác, theo một phương cách không gây ảnh hưởng đến các quyền của bệnh nhân nội trú khác, và đảm bảo quyền của bệnh nhân đó được từ chối hoặc rút lại sự đồng ý cho cuộc thăm viếng vào bất cứ lúc nào.
Tiêu đề 42 C.F.R. § 483.10(f)(4) cũng yêu cầu các cơ sở chăm sóc y tế dài hạn cho quyền được thăm viếng tức thì bệnh nhân nội trú cho bất cứ người đại diện nào của các hệ thống bảo vệ và vận động chính sách, như chỉ định của tiểu bang, và như được thiết lập theo Chương trình Hỗ trợ Khuyết tật Phát triển và Đạo luật Tuyên ngôn Nhân quyền năm 2000 và Đạo luật Bảo vệ và Vận động cho Người Mắc bệnh Tâm thần năm 2000.
Thêm vào đó, trong một số trường hợp, Mục 504 của Đạo luật Phục hồi (29 U.S.C. 794 và quy định về thực hiện tại 45 CFR part 84) và Mục 1557 của Đạo luật Bảo vệ Bệnh nhân và Chăm sóc Sức Khỏe Giá cả Phải chăng (42 U.S.C. 18116 và quy định về thực hiện tại 45 CFR part 92) có thể yêu cầu một cơ quan được bao hàm điều chỉnh hợp lý các chính sách và quy trình dành cho những người khuyết tật có thể cần người hỗ trợ hiện diện cùng họ. Để biết thêm thông tin, hãy xem hướng dẫn của OCR đã được phát hành trước đây về vấn đề này.xviii
13. Một cơ sở có thể giới hạn cách giao tiếp của bệnh nhân nội hoặc ngoại trú với khách thăm viếng họ không?
Có. Theo Tiêu đề 42 C.F.R. Mục 482.13(h), 483.10(f)(4), và 485.614(h), một cơ sở y tế có thể cần đến một sự cần thiết về y tế, một sự giới hạn hay hạn chế hợp lý đối với việc thăm viếng bệnh nhân miễn là điều đó vẫn tuân thủ các yêu cầu của các luật liên bang này, bao gồm việc chính sách và quy trình đó không giới hạn, hạn chế hoặc từ chối quyền thăm viếng dựa trên chủng tộc, màu da, nguồn gốc dân tộc, giới tính, giới tính định danh, xu hướng tình dục, khuyết tật và tôn giáo. Ví dụ, một cơ quan được bao hàm có thể được cho phép yêu cầu rằng, trong một cơn bùng phát bệnh truyền nhiễm, khách khi thăm viếng bệnh nhân nội hoặc ngoại trú cần mặc đồ bảo hộ hoặc duy trì một khoảng cách nhất định với cá nhân họ đang đến thăm.
14. Một cơ sở y tế có thể giới hạn việc thăm viếng qua mạng Internet không?
Có. Một bệnh viện, cơ sở chăm sóc y tế dài hạn, hoặc bệnh viện trọng điểm vùng nông thôn phải tuân thủ cùng những yêu cầu do CMS quy định trong việc giới hạn việc thăm viếng qua mạng như là thăm viếng trực tiếp. Các quy định của CMS nói rằng có thể giới hạn việc thăm viếng bằng một sự cần thiết về y tế, một sự giới hạn hoặc hạn chế hợp lý miễn là điều đó tuân thủ những yêu cầu của các luật liên bang tương thích, bao gồm việc chính sách hoặc quy trình đó không giới hạn, hạn chế, hoặc từ chối quyền thăm viếng dựa trên nền tảng chủng tộc, màu da, nguồn gốc quốc gia, giới tính, giới tính định danh, xu hướng tình dục, khuyết tật và tôn giáo. Ví dụ, OCR đã nhận được nhiều khiếu nại về việc cơ sở y tế giới hạn việc sử dụng thiết bị liên lạc Kosher, có khả năng vi phạm các quy định về thăm viếng bệnh nhân của CMS. Các cơ sở y tế nên đảm bảo rằng bất kỳ giới hạn nào được đặt ra đối với các thiết bị được sử dụng cho mục đích thăm viếng bệnh nhân đều không phân biệt đối xử dựa trên tôn giáo.
Lưu ý rằng, các cơ sở chăm sóc y tế dài hạn tối thiểu phải tạo điều kiện thuận lợi cho mọi yêu cầu về phương tiện liên lạc thay thế dựa trên yêu cầu về sự liên lạc giống như vậy thay thế cho chuyến thăm viếng trực tiếp, ví dụ như bằng điện thoại hoặc thông qua việc dùng các kỹ thuật khác. Nghĩa vụ này áp dụng cho dù yêu cầu được thực hiện bởi bệnh nhân nội trú; chương trình Thanh tra Chăm sóc Y tế Dài hạn (Ombudsman); một cơ quan bảo vệ và vận động chính sách, bao gồm cơ quan tôn giáo hay liên quan tôn giáo, hay cơ quan khác có quyền hợp pháp để tiếp cận liên lạc với bệnh nhân nội trú.
15. Tôi có thể nộp đơn khiếu nại ở đâu nếu tôi tin rằng quyền bệnh nhân được thăm viếng của tôi bị một cơ quan được bao hàm vi phạm?
Văn phòng Dân quyền thi hành các luật cấm phân biệt đối xử và yêu cầu các cơ quan y tế được bao hàm phải cung cấp cho các cá nhân cơ hội bình đẳng để tham gia vào một chương trình hoặc hoạt động của họ, bất kể chủng tộc, màu da, nguồn gốc quốc gia, giới tính (bao gồm cả giới tính định danh và khuynh hướng tình dục), tuổi tác, khuyết tật, hoặc tôn giáo. Điều này bao gồm các hành vi vi phạm các yêu cầu theo điều lệ của CMS tại Tiêu đề 42 C.F.R. §§ 482.13(h)(3), 483.10(f)(4)(vi)(C), và 485.614(h)(3), rằng một cơ quan được bao hàm không thể giới hạn, hạn chế hoặc từ chối quyền được thăm viếng của bệnh nhân dựa trên tôn giáo. Các cá nhân nào tin rằng một cơ sở y tế đã vi phạm quyền bệnh nhân được thăm viếng của họ hay của người khác, là sự kỳ thị dựa trên tôn giáo theo quy định của CMS, hoặc các quyền khác không liên quan đến kỳ thị theo luật liên bang về nhân quyền, ví dụ như Mục 1557, Tiêu đề VI, Tiêu đề IX, Đạo luật Chống Phân biệt Đối xử dựa trên Tuổi tác, và Mục 504, có thể nộp đơn khiếu nại với OCR tại Cổng Thông tin Khiếu nại của OCR.
CMS điều tra và thi hành những Điều kiện Tham gia dành cho các cơ sở y tế được bao hàm về sự tôn trọng đối với các quyền của bệnh nhân nội và ngoại trú, bao gồm quyền bệnh nhân được thăm viếng, chống lại sự kỳ thị dựa trên chủng tộc, màu da, nguồn gốc dân tộc, giới tính, giới tính định danh, xu hướng tình dục, hoặc khuyết tật (Tiêu đề 42 C.F.R. §§ 482.13, 483.10, và 485.614). Nếu quý vị tin rằng quyền được thăm viếng của quý vị bị vi phạm hoặc một cơ sở không tuân thủ những quy định này, quý vị có thể nộp đơn khiếu nại với Văn Phòng CMS tương ứng với khu vực của quý vị. Có thể tìm các văn phòng này tại https://www.cms.gov/Medicare/Coding/ICD10/CMS-Regional-Offices hoặc với Cơ quan Khảo sát Tiểu bang tương ứng với khu vực của quý vị. Có thể tìm các cơ quan này tại www.cms.gov/Medicare/Provider-Enrollment-and-Certification/SurveyCertificationGenInfo/ContactInformation.
Endnotes
i Tiêu đề 42 C.F.R. Mục 482.13(h), 483.10(f)(4), và 485.614(h). 42 C.F.R. Mục 485.614(h) là một Điều kiện để Tham gia dành cho các bệnh viện trọng điểm vùng nông thôn vào riêng chương trình Medicare.
ii Id.
iii U.S. Dept. of Health and Human Servs., Office for Civil Rights, Notice of Delegation of Authority and Amendments to OCR Statement of Organization and Functions [Thông Báo Ủy Quyền và Sửa Đổi Tuyên Bố về Tổ Chức và Chức Năng của OCR] (Ngày 15, Tháng 1, 2021) (trong hồ sơ với HHS OCR).
iv U.S. Dept. of Health and Human Servs., Office for Civil Rights, FAQs for Healthcare Providers during the COVID-19 Public Health Emergency: Federal Civil Rights Protections for Individuals with Disabilities under Section 504 and Section 1557 [Câu hỏi thường gặp dành cho Các nhà cung cấp Dịch vụ Chăm sóc sức khỏe trong Trường hợp Khẩn cấp về sức khỏe cộng đồng do COVID-19: Các Biện pháp bảo vệ Quyền dân sự của Liên bang dành cho Người khuyết tật theo Mục 504 và Mục 1557] (nội dung được duyệt lại lần cuối vào Ngày 4, Tháng 2, 2022), xem tại https://www.hhs.gov/civil-rights/for-providers/civil-rights-covid19/disabilty-faqs/index.html.
v CMS Letter to State Survey Agency Directors, Nursing Home Visitation – COVID-19 [Thư CMS Gửi Giám đốc Cơ quan Khảo sát Tiểu bang, Sự thăm viếng Viện dưỡng lão - COVID-19] (ĐÃ SỬA ĐỔI), tham chiếu QSO-20-39-NH, tại 2 (sửa đổi Ngày 23 Tháng 9, 2022).
vi Joyce Simard, MSW and Ladislav Volicer, MD, PhD, Loneliness and Isolation in Long-term Care and the COVID-19 Pandemic [Sự cô đơn và Cô lập trong Cơ sở Chăm sóc y tế dài hạn và Đại dịch COVID-19], J AM Phó Giám đốc Y Tế. (Tháng 7, 2020) (doi: 10.1016/j.jamda.2020.05.006).
vii Jennifer Abbasi, Social Isolation – the Other COVID-19 Threat in Nursing Homes [Sự Cô lập xã hội - Mối đe dọa COVID-19 khác trong Viện dưỡng lão], JAMA (Ngày 16 Tháng 7, 2020) (doi:10.1001/jama.2020.13484).
viii Tiêu đề 45 CFR 84.4; 45 CFR 92.2.
ix Sự an toàn của chính bệnh nhân (nội hoặc ngoại trú), những bệnh nhân nội hoặc ngoại trú khác, nhân viên của cơ sở y tế, những cá nhân khác có mặt và người hỗ trợ hoặc thông dịch viên đều có thể là những cân nhắc xác đáng.
x Supra, chú thích iv.
xi U.S. Dept. of Health and Human Servs., Office for Civil Rights, BULLETIN: Ensuring the Rights of Persons with Limited English Proficiency in Health Care During COVID-19 [BẢN TIN: Đảm bảo Quyền của những Người có Trình độ tiếng Anh Hạn chế trong Chăm sóc sức khỏe trong Thời kỳ dịch bệnh COVID-19] (Ngày 15 Tháng 5, 2020), xem tại https://www.hhs.gov/sites/default/files/lep-bulletin-5-15-2020-english.pdf.
xii U.S. Dept. of Health and Human Servs., Office for Civil Rights, Limited English Proficiency (LEP) [Trình độ Tiếng Anh Hạn chế (LEP)] (nội dung được xem xét lần cuối vào ngày 5 tháng 4, 2023), xem tại https://www.hhs.gov/civil-rights/for-individuals/special-topics/limited-english-proficiency/index.html.
xiii 28 CFR 35.130(h).
xiv CMS Letter to State Survey Agency Directors, Nursing Home Visitation – COVID-19 (REVISED), Ref: QSO-20-39-NH, at 2 (revised Sept. 23, 2022), [Thư của CMS gửi Giám đốc Cơ quan Khảo sát Tiểu bang, Sự Thăm Viếng Viện Điều Dưỡng – COVID-19] (ĐÃ SỬA ĐỔI), Tham chiếu: QSO-20-39-NH, tại 2 (sửa đổi ngày 23 tháng 9 năm 2022), https://www.cms.gov/files/document/qso-20-39-nh-revised.pdf.
xv “Compassionate care visits include visits for a resident whose health has sharply declined or is experiencing a significant change in circumstances.” Centers for Medicare & Medicaid Services, Press Release: CMS Updates Nursing Home Guidance with Revised Visitation Recommendations (March 10, 2023). Available at, https://www.cms.gov/newsroom/press-releases/cms-updates-nursing-home-guidance-revised-visitation-recommendations.
xvi Id., tại 5.
xvii Mối đe dọa trực tiếp có nghĩa là một rủi ro quan trọng đối với sức khỏe hoặc sự an toàn của những người khác mà không thể loại bỏ được bằng cách sửa đổi chính sách, cách thực hiện hoặc quy trình hoặc bằng cách cung cấp dụng cụ trợ giúp hoặc dịch vụ hỗ trợ. Việc xác định mối đe dọa trực tiếp đòi hỏi phải có đánh giá cá thể, đặt nền tảng trên phán xét hợp lý dựa trên kiến thức y tế hiện tại hoặc bằng chứng khách quan tốt nhất hiện có, để xác định: tính chất, khoảng thời gian và mức độ nghiêm trọng của rủi ro; khả năng thương tích tiềm tàng sẽ thực sự xảy ra; và liệu những sửa đổi hợp lý về chính sách, cách thực hiện hoặc quy trình hoặc việc cung cấp dụng cụ trợ giúp hoặc dịch vụ hỗ trợ có giảm thiểu rủi ro hay không. Tiêu đề 28 C.F.R. Mục 35.104 và 35.139(b).
xviii Supra, chú thích iv.